Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu và các yếu tố tác động

Đăng ngày: 18/03/2021 , 09:38 GMT+7

Sau hơn một năm dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp ở nhiều nước trên thế giới, sự hạn chế sản xuất và giao thương đã khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, dẫn đến sự sụt giảm mạnh thương mại toàn cầu. Tác động mạnh mẽ từ Covid-19 và các yếu tố khác đang thúc đẩy thay đổi cấu trúc chuỗi cung ứng với những xu hướng, giải pháp mới thích hợp hơn.

Xu hướng định hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu

Tháng 6/2020, Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đã đưa ra 04 khả năng/xu hướng để định hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu (global value chain - GVC) trong tương lai sau đại dịch Covid-19, bao gồm: (1) Đưa sản xuất về nước hoặc gần quốc gia của mình (reshoring); (2) đa dạng hóa chuỗi (đa dạng hóa); (3) khu vực hóa; (4) nhân rộng chuỗi.

Theo xu hướng (1),GVC sẽ ít manh mún và phân tán về mặt địa lý. Công nghệ tự động hóa sử dụng robot là rất quan trọng, do đó giảm nhu cầu lao động dẫn đến giảm nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Xu hướng này có thể xảy ra đối với các ngành công nghệ cao, liên quan nhiều đến GVC như máy móc, điện tử và công nghiệp ô tô. Theo xu hướng (2) một số ngành sẽ đi ngược lại xu hướng (1),theo đó chuỗi sẽ đa dạng hơn và do đó tăng khả năng phục hồi của chuỗi. Nhiều khả năng xảy ra đối với các ngành dịch vụ hoặc các ngành tham gia sâu vào chuỗi hiện tại là những ngành có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ sự phức tạp và manh mún của GVC. Theo xu hướng (3) trở nên khu vực hóa hơn, đây là kết quả của việc thu hẹp các chuỗi từ cấp độ toàn cầu xuống cấp độ khu vực hoặc thúc đẩy các chuỗi mới trong khu vực. Nguyên nhân chính của xu hướng này là do sự phát triển của công nghệ số cũng như việc khai thác các vùng nguyên liệu tại chỗ và sự tương đồng lớn hơn trong khu vực về trình độ phát triển. Xu hướng này chủ yếu sẽ xảy ra với các ngành liên quan đến nhiều GVC cũng có thể nhân rộng mô hình của họ ở cấp khu vực, ví dụ như trong ngành ô tô. Ngoài ra, sự phát triển của thị trường cho các sản phẩm tiêu dùng rẻ tiền ở các nước đang phát triển - chẳng hạn như điện tử hoặc dệt may - cũng sẽ thúc đẩy GVC trong khu vực trong các ngành này. Xu hướng (4) chủ yếu xảy ra với các chuỗi ngắn, sản xuất phân tán gần điểm tiêu thụ và được hỗ trợ bởi công nghệ sản xuất mới - sản xuất phụ gia hoặc in 3D, ví dụ: dược phẩm, dệt may, thực phẩm. Trong cả 4 xu hướng trên, nhân tố Covid-19 là yếu tố tác động khá quan trọng dẫn đến sự thay đổi của GVC, thể hiện ở nhu cầu xây dựng các ngành chiến lược và giảm thiểu rủi ro phụ thuộc. Ngoài ra, khoa học và công nghệ, đặc biệt liên quan đến công nghiệp 4.0 cũng sẽ góp phần định hình lại các chuỗi. Kết quả chung trong việc định hình lại chuỗi cung ứng là quy mô FDI toàn cầu có thể thu hẹp lại.

Ảnh minh họa. Nguồn commercialriskonline

Các yếu tố tác động đến tái cấu trúc chuỗi cung ứng hậu Covid-19

Để đối phó với tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng, đặc biệt là sự biến động tại các đầu mối thượng nguồn của các chuỗi cung ứng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều quốc gia đang tiến hành tái cấu trúc chuỗi cung ứng. Mỗi xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng thời kỳ hậu Covid-19 đều có những yếu tố tác động, cụ thể như sau:

Thứ nhất, đa dạng hóa cơ sở cung ứng để bảo vệ khỏi sự gián đoạn chuỗi cung ứng

Hậu Covid-19 thúc đẩy đa dạng hóa và rút ngắn chuỗi cung ứng. Hình thành mối quan hệ lâu dài với một nhóm các nhà cung cấp đáng tin cậy, nhiều người mua đang khám phá việc sử dụng đa nguồn cung ứng để đảm bảo các đơn đặt hàng của họ được đáp ứng đầy đủ và liên tục.

Việc phân chia các hoạt động tìm nguồn cung ứng giữa nhiều nhà cung cấp nhằm bảo vệ doanh nghiệp chống lại sự gián đoạn nguồn cung từ một nhà cung cấp duy nhất bằng cách tăng khối lượng có nguồn gốc từ một nhà cung cấp có thể không bị ảnh hưởng. Như với bất kỳ chiến lược nào cũng có những chi phí liên quan đến nó. Bằng cách thu hút nhiều nhà cung cấp, ở các địa điểm khác nhau (có thể để giảm thiểu tác động địa lý),tính kinh tế theo quy mô có thể được giảm đáng kể, làm tăng chi phí tài chính.

Thứ hai, tạo mạng kỹ thuật số cho các chuỗi cung ứng

Một yếu tố quan trọng khác cần xem xét là cấu hình mạng lưới chuỗi cung ứng - cách một chuỗi cung ứng nhất định được thiết kế hoặc vạch ra, có tính đến những thứ như quy định về thuế, nguồn lực sẵn có và luồng vận chuyển. Ví dụ: một công ty có thể có một nguồn duy nhất cho mỗi sản phẩm được sản xuất, mặt khác, họ có thể có các nguồn cung cấp trùng lặp cho từng sản phẩm và sản phẩm con, họ có thể có nhiều nhà cung cấp với các mức độ khác nhau cho các dòng sản phẩm khác nhau. Trong mọi trường hợp, điều quan trọng là phải xem xét mọi tác động có thể xảy ra với nhà cung cấp được chia sẻ từ một nguồn duy nhất và phát triển các chiến lược để duy trì chất lượng nhất quán giữa các nhà cung cấp được chia sẻ.

Việc tạo ra mạng lưới cung cấp kỹ thuật số sẽ là chìa khóa để phản ứng với Covid-19 và xây dựng khả năng phục hồi cho tương lai. Mạng lưới cung ứng kỹ thuật số đang hoạt động sẽ kết nối các công ty với mạng lưới cung cấp đầy đủ để cho phép hợp tác về khả năng hiển thị đầu cuối chuỗi, khả năng đáp ứng và tối ưu hóa chuỗi cung ứng. Thiết lập các công ty có khả năng hiển thị mạng lưới chuỗi cung ứng, sử dụng trí tuệ nhân tạo để cho phép chuyển đổi chuỗi cung ứng. Ngày nay, các nhà bán lẻ, nhà sản xuất, nhà cung cấp lớn nhất thế giới sử dụng công nghệ để tăng khả năng hiển thị, lập kế hoạch và quản lý vận chuyển toàn cầu, tối ưu hóa lượng hàng tồn kho cũng như cung cấp dịch vụ khách hàng khác biệt và hiệu quả của chuỗi cung ứng.

Thứ ba, giải pháp Công nghệ - Thông minh

Công nghệ đã nổi lên như một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một công ty trong thời kỳ Covid-19. Tuy nhiên, các phân tích cho thấy rằng công nghệ của các công ty có thể không ở mức độ sẵn sàng như nhau. Có nhiều mối quan tâm liên quan đến việc sử dụng công nghệ. Trong số các công nghệ được các công ty đang áp dụng, nhiều công nghệ có thể cung cấp cho họ khả năng hiển thị trên toàn chuỗi giá trị cũng như giúp tăng hiệu quả hoạt động.

Việc sử dụng công nghệ có thể rất quan trọng đối với khả năng hiển thị trên toàn bộ chuỗi cung ứng cũng như để đạt được hiệu quả. Khai thác sức mạnh của công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI),tự động hóa, IoT, blockchain, giao diện lập trình ứng dụng (API) và vệ tinh công suất cao có thể giúp một công ty được cảnh báo trước những thay đổi của chuỗi cung ứng và một công ty có thể thực hiện các chiến lược và thực hành để giảm thiểu các tác động tiêu cực. Blockchain có thể đơn giản hóa việc tìm nguồn cung ứng vật liệu và cung cấp sự minh bạch trong chuỗi cung ứng. Do đó, công nghệ đảm bảo rằng một công ty có thể vượt qua những thời điểm thử thách và tiếp tục hoạt động kinh doanh.

Khi các nhà bán lẻ ngừng hoạt động, lượng mua sắm trực tuyến tăng lên. Việc vận chuyển các mặt hàng từ các doanh nghiệp trực tiếp đến tay người tiêu dùng đã bị gián đoán. Thay vào đó, năng lực lao động và phát triển được chuyển sang hoạt động kinh doanh cốt lõi. Các giải pháp thông minh xung quanh việc đóng gói hoặc bảo mật giao hàng có thể trở nên quan trọng hơn.

Thứ tư, chi phí lao động, logistics và sự sẵn sàng của cơ sở hạ tầng

Chuyển sản xuất về gần (Reshoring) là quá trình đưa hoạt động sản xuất và một phần hoặc toàn bộ chuỗi cung ứng từ nước ngoài về nước. Về gần (nearshoring) là một quá trình tương tự, nhưng đề cập đến một địa điểm gần quê hương. Trong một số trường hợp, một công ty sẽ phục hồi toàn bộ hoạt động và chuỗi cung ứng của mình, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm.

Do chi phí lao động hoặc cơ sở hạ tầng và các thành phần để lưu trữ chuỗi cung ứng đầy đủ, việc thuê lại có nghĩa là đưa công ty lắp ráp cuối cùng và có thể là nhà cung ứng cấp một đến gần công ty mẹ, các nhà cung ứng cấp hai, ba và cao hơn vẫn có thể là nước ngoài. Ví dụ về các công ty may mặc thay đổi các nhà cung cấp cấp một ở bên ngoài Trung Quốc, hầu hết ở các nước Đông Nam Á. Các quốc gia như Bangladesh không có nguồn nguyên liệu thô lớn và tiếp tục phụ thuộc vào Trung Quốc để nhập khẩu. Vì vậy, mặc dù cấp một đã chuyển đi, cấp hai vẫn ở Trung Quốc.

Covid-19 gây ra những rủi ro do sự gián đoạn nguồn cung ở Trung Quốc đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn cầu. Đối với các công ty chưa tính đến việc tái cấu trúc chuyển sản xuất về gần trước khi sự gián đoạn của Covid-19 xuất hiện, có thể còn quá sớm để quyết định về những thay đổi dài hạn có thể đòi hỏi đầu tư quy mô lớn. Do đó, chuyển sản xuất về gần (reshoring và nearshoring) sẽ bắt đầu có động lực khoảng sáu tháng sau khi chuỗi cung ứng đi vào trạng thái "bình thường mới". Xu hướng này sẽ tiếp tục lâu dài, cho đến khi chi phí bắt đầu lớn hơn lợi ích. Các công ty sẽ đa dạng hóa các nhà cung cấp và mở rộng chuỗi cung ứng của họ nếu các nhà cung ứng cung cấp hàng hóa với giá cả phù hợp. Các điều kiện hiện tại rất thuận lợi cho việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng về chi phí và khả năng phục hồi. Ví dụ: đối với các công ty của Hoa Kỳ, chi phí hậu cần và nhân công ở Mexico thấp hơn so với Trung Quốc và các nhà cung cấp gần nhà sẽ giảm thời gian giao hàng và nguy cơ gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu phức tạp.

Cơ hội cho Việt Nam và giải pháp

Việc chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn và thay đổi cấu trúc do tác động của dịch Covid-19 mang đến những cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Thay vì chỉ tập trung đầu tư sản xuất tại Trung Quốc, thời gian qua nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn của thế giới đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… đã có động thái dịch chuyển chuỗi sản xuất, đa dạng hóa danh mục sản xuất. Trong bối cảnh đó, Việt Nam là điểm đến đầy hứa hẹn cho làn sóng dịch chuyển này sau khi Việt Nam tạo nên sự khác biệt, chống chọi thành công với đại dịch.

Gần đây, Bộ phận phân tích thông tin (Economist Intelligence Unit - EIU) thuộc tạp chí The Economist đã đưa ra nhận định, Việt Nam đang nổi lên là quốc gia thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hấp dẫn nhất ở châu Á, vượt qua cả Trung Quốc và Ấn Độ. Việt Nam cũng dần trở thành công xưởng sản xuất giá rẻ mới trong chuỗi cung ứng khu vực châu Á. Theo EIU, các yếu tố giúp Việt Nam nổi trội hơn, hấp dẫn hơn so với các quốc gia khác trong khu vực nhờ sự ổn định chính trị, cơ sở sản xuất chi phí thấp, động lực khuyến khích các doanh nghiệp quốc tế thành lập các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghệ cao và việc Việt Nam tham gia ngày càng nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, Việt Nam ghi điểm cao hơn Ấn Độ và Trung Quốc về chính sách FDI cũng như kiểm soát thương mại quốc tế, hối đoái.

Xếp hạng chỉ số môi trường sản xuất kinh doanh của một số quốc gia châu Á (Nguồn: EIU-The Economist)

Theo Ban Dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp (Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia),sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu có thể mang lại lợi ích cho ngành công nghiệp Việt Nam, tuy nhiên đến nay số lượng doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ có đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng còn quá ít. Nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận chuỗi cung ứng hiện có của các công ty lớn chuyên sản xuất lắp ráp, hiện chủ yếu do các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và liên doanh đảm nhận.

Để khắc phục, Việt Nam có thể khai thác một số xu hướng toàn cầu vốn đã được thực tiễn thời gian qua thúc đẩy do tác động của dịch Covid-19. Thách thức chính đối với Việt Nam là tìm ra động lực tăng trưởng mới để củng cố đà phục hồi dự kiến. Ví dụ, trong một hệ thống thương mại toàn cầu mới, Việt Nam có thể củng cố vị trí của mình bằng cách thúc đẩy hợp tác phát triển với các quốc gia cũng có tỷ lệ nhiễm Covid-19 thấp và tăng cường các nỗ lực xúc tiến để thu hút các công ty có kế hoạch đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể chủ động tìm kiếm cơ hội trong các hiệp định thương mại tự do và chuyển dịch chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời nắm bắt sự cạnh tranh và tiêu chuẩn cao ở thị trường nước ngoài.

HOÀNG PHƯƠNG

Tạp chí Doanh nghiệp và Thương mại - Số 02/2021

------------------------------------------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

* The Economist: Rising star: Vietnam’s role in Asia’s shifting supply chains, 13th January 2021, link:

https://www.eiu.com/public/topical_report.aspx?campaignid=jan21vietnam

* UNCTAD: How COVID-19 is changing global value chains?, 02 September 2020, link: https://unctad.org/news/how-covid-19-changing-global-value-chains

* Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế-xã hội Quốc gia: Tái cấu trúc chuỗi cung ứng thế giới thời kỳ hậu Covid-19; tháng 12/2020; truy cập tại địa chỉ http://www.ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=22417

Đăng ngày: 18/03/2021 , 09:03 GMT+7

Tin liên quan

Tin Khác